Hiện trạng hệ thống thủy lợi của Việt nam

2016.12.13 - 3369 lượt xem

Theo số liệu thống kê đánh giá chưa đầy đủ, các công trình thủy lợi đang được khai thác gồm: 5.656 hồ chứa; 8.512 đập dâng; 5.194 trạm bơm điện, cống tưới tiêu các loại; 10.698 các công trình khác và trên 23.000 bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở ĐBSCL, cùng với hàng vạn km kênh mương và công trình trên kênh.

(1) Hệ thống các công trình thủy lợi của Việt Nam

Với vai trò quan trọng của công tác thủy lợi trong việc cấp thoát nước phục vụ dân sinh kinh tế.

Theo số liệu thống kê đánh giá chưa đầy đủ, các công trình thủy lợi đang được khai thác gồm: 5.656 hồ chứa; 8.512 đập dâng; 5.194 trạm bơm điện, cống tưới tiêu các loại; 10.698 các công trình khác và trên 23.000 bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở ĐBSCL, cùng với hàng vạn km kênh mương và công trình trên kênh.

Tuy các hệ thống thủy lợi đã phát huy hiệu quả phục vụ dân sinh, kinh tế nhưng trong quá trình quản lý vẫn còn một số tồn tại:

-        Đầu tư xây dựng không đồng bộ từ đầu mối đến kênh mương nội đồng

-        Năng lực phục vụ của các hệ thống đạt bình quân 60% so với năng lực thiết kế. Hiệu quả phục vụ chưa cao, chất lượng việc cấp thoát nước chưa chủ động và chưa đáp ứng được so với yêu cầu của sản xuất và đời sống.

-        Nhiều cơ chế, chính sách quản lý khai thác hệ thống thủy lợi còn bất cập, không đồng bộ, nhất là cơ chế chính sách về tổ chức quản lý,cơ chế tài chính.

-        Tổ chức quản lý các hệ thống chưa đồng bộ và cụ thể, đặc biệt quản lý các hệ thống thủy lợi nhỏ. Việc phân cấp tổ chức, quản lý ở nhiều địa phương còn chưa rõ ràng.

Để ổn định và phát triển dân sinh kinh tế, trong những thập kỷ qua công tác phát triển thuỷ lợi đã được quan tâm đầu tư ngày càng cao. Phát triển thuỷ lợi đã nhằm mục tiêu bảo vệ, khai thác và sử dụng tổng hợp nguồn nước nhằm bảo vệ dân sinh, sản xuất và đáp ứng nhu cầu nước cho phát triển tất cả các ngành kinh tế xã hội. Sự nghiệp phát triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn,  góp phần vô cùng quan trọng cho sự phát triển của mọi ngành kinh tế - xã hội trong thời gian qua và nhất là trong thời kỳ đổi mới của đất nước, đặc biệt là phát triển sản xuất lương thực. 

Về Tưới tiêu, cấp thoát nước : Đến nay cả nước có 75 hệ thống thủy lợi lớn, 800 hồ đập loại lớn và vừa, hơn 3.500 hố có dung tích trên 1 triệu m3 nước và đập cao trên  10 m, hơn 5.000 cống tưới- tiêu lớn, trên 10.000 trạm bơm lớn và vừa với tổng công suất bơm 24,8 triệu m3/h, hàng vạn công trình thủy lợi vừa và nhỏ. Các hệ thống có tổng năng lực tưới trực tiếp cho 3,45 triệu ha, tạo nguồn cấp nước cho 1,13 triệu ha, tiêu cho 1,4 triệu ha, ngăn mặn cho 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn cho 1,6 triệu ha  đất canh tác nông nghiệp. Diện tích lúa, rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày được tưới không ngừng tăng lên qua từng thời kì.

Cụ thể theo 7 vùng kinh tế như sau :

(i)Vùng Trung du và Miền núi Bắc bộ.

          Tưới tiêu, cấp nước: Hiện có 1.750 hồ chứa vừa và nhỏ, 40.190 đập đâng, hàng trăm công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, 379 trạm bơm điện, hàng vạn công trình tiểu thuỷ nông. Trong vùng có những công trình lớn lợi dụng tổng hợp điều tiết cấp nước, phát điện, chống lũ cho cả vùng trung và hạ du là Hoà Bình, Thác Bà, Núi Cốc, Cấm Sơn. Diện tích tưới thiết kế 263.067 ha, thực tưới được 206.037 ha và cấp nước sinh hoạt cho hơn 30 vạn dân nông thôn, cấp nước cho các khu đô thị và công nghiệp ở các tỉnh.

          - Phòng chống thiên tai lũ lụt: Dọc các sông nhánh chính của hệ thống sông Hồng-Thái Bình đều đã có đê khép với các tuyến đê ở hạ du, tạo thành hệ thống đê hoàn chỉnh bảo vệ cho cả vùng trung du và đồng bằng sông Hồng, trong đó có 399 km đê sông, 194 cống dưới đê Trung ương quản lý và 120 km đê biển + cửa sông.

(ii)Vùng Đồng bằng sông Hồng

          - Tưới tiêu, cấp nước: Hiện có 55 hệ thống thủy nông lớn và vừa gồm 500 cống, 1.700 trạm bơm điện chính và 35.000 trạm bơm nhỏ nội đồng, hơn 5 vạn kênh trục chính (cấp I, II, III), 35 hồ chứa (dung tích từ 0,5-230 triệu m3) và nhiều hồ chứa nhỏ có tổng diện tích tưới thiết kế khoảng 85.000 ha, kết hợp cấp nước sinh hoạt.

          - Phòng chống thiên tai lũ lụt: Đã hình thành một hệ thống đê điều hoàn chỉnh gồm: 2.700 km đê sông, 1.118 cống dưới đê trung ương quản lý, 310 km đê biển + cửa sông. Đê sông được thiết kế chống lũ có mực nước tương ứng +13,1m ở Hà Nội và +7,20 m tại Phả Lại. Riêng  đoạn đê hữu sông Hồng bảo vệ Hà Nội có mức nước thiết kế +13,4m.

(iii)Vùng Bắc Trung bộ

          - Tưới tiêu, cấp nước: Trong vùng đã xây dựng được 2 hệ thống thủy lợi lớn là Đô Lương và Bái Thượng, 20 hồ chứa có dung tích trên 10 triệu m3 và hàng nghìn công trình hồ, đập, trạm bơm vừa và nhỏ. Tổng diện tích tưới thiết kế là 424.240 ha canh tác, thực tưới 235.600 ha lúa đông-xuân, 159.700 ha lúa hè-thu và 219.700 ha lúa mùa, cung cấp và tạo nguồn cấp cho dân sinh và các khu đô thị trong vùng.

          Các hệ thống tiêu được thiết kế với hệ số tiêu 4,2-5,6 l/s.ha, có diện tích tiêu thiết kế 163.200 ha (tiêu động lực 48.330 ha), thực tiêu được 132.880 ha (tiêu động lực được 35.210 ha).

          - Phòng chống thiên tai lũ lụt:  Dọc các hệ thống sông Mã, sông Cả và ven biển đã có đê chống lũ và ngăn sóng, triều. Riêng 3 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh có 512 km đê sông, 259 cống dưới đê trung ương quản lý và 784 km đê biển + cửa sông.  Đê sông Mã, sông Cả có thể chống lũ chính vụ lớn như lũ lịch sử (P » 2-2,5%) không bị tràn, đê các sông khác chỉ chống được lũ sớm, lũ tiểu mãn và lũ muộn (P » 10-20%) bảo vệ sản xuất vụ đông-xuân và hè-thu.

(iv)Vùng Duyên hải Nam Trung bộ

          - Tưới tiêu, cấp nước: Có 891 công trình thuỷ lợi cấp nước, gồm 16 đập dâng, 32 hồ chứa  154 trạm bơm, 683 công trình nhỏ. Tổng năng lực tưới thiết kế 181.930 ha, thực tưới được 106.440 ha.

          - Phòng tránh bão lũ: Các giải pháp phòng chống lũ chủ yếu là bố trí sản xuất tránh lũ chính vụ, mới có một số hệ thống bờ bao bảo vệ sản xuất vụ hè-thu. Riêng đê biển ở tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng có chiều dài 214 km.

(v)Vùng Tây Nguyên

          - Tưới tiêu, cấp nước: Có 972 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ tưới cho 34.224 ha lúa Đông xuân và 87.148 ha cây cà phê. Trong đó, ở tỉnh Kon Tum có 150 công trình, tưới cho 4.900 ha lúa đông-xuân, 5.000ha cà phê; tỉnh Gia Lai có 165 công trình, tưới cho 11.650 ha lúa đông xuân, 9.600 ha cà phê; tỉnh Đắc Lắc có 476 công trình, tưới cho 9.864 ha lúa đông-xuân, 46.878 ha cà phê; Lâm Đồng có 180 công trình, tưới 7.830 ha lúa đông xuân, 31.870 ha cà phê.

          - Công trình chống lũ chưa được đầu tư nhiều, mới có một vài tuyến đê nhỏ, bờ bao chống lũ sớm và lũ tiểu mãn ở một số vùng nhỏ.

(vi)Miền Đông Nam bộ

          - Tưới tiêu, cấp nước, thuỷ điện:  Đã xây dựng được nhiều công trình lớn lợi dụng tổng hợp như: Trị An trên sông Đồng Nai, Thác Mơ trên Sông Bé, Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, Hàm Thuận - Đa Mi (công suất 475 MW, điện lượng 1550 Gwh/năm); đập Nha Trinh, Hồ Sông Quao, hồ Đá Bàn, Đa Tôn, Sông Mây…cùng các công trình có quy mô vừa khác có tổng công suất 1.188 MW, điện lượng trung bình 4,498 tỷ Kwh/năm. Công trình Dầu tiếng có diện tích tưới thiết kế khoảng 93.000 ha và chuyển sang sông Vàm Cỏ khoảng 10 m3/s. Ngoài ra còn nhiều công trình vừa và nhỏ khác tưới cho hàng chục ngàn hecta. Các hồ chứa đã điều tiết tăng lưu lượng kiệt ở hạ lưu, ranh giới mặn được đẩy lùi về hạ lưu: sông Đồng Nai khoảng 18-20 km; sông Vàm Cỏ Đông 8-10 km.

          Nước ngầm được khai thác chủ yếu cấp cho sinh hoạt, một số nơi được khai thác để tưới cho cây công nghiệp, chủ yếu là cà phê. Tổng lượng nước ngầm khai thác ước tính khoảng 750.000 m3/ngày, trong đó cấp cho sinh hoạt 700.000 m3/ngày (gồm các trạm bơm Hoóc Môn ở TP. Hồ Chí Minh 20.600 m3/ngày và Hòa An, Suối Vàng, Sông Dinh).

          - Phòng chống lũ:

          Hiện nay, công trình phòng chống lũ chủ yếu là các hồ chứa ở thượng lưu tham gia chống lũ cho bản thân công trình và một phần giảm lũ cho hạ du. Ở hạ du chỉ có một vài tuyến đê nhỏ.

(vii)Vùng Đồng bằng sông Cửu long

          - Tưới tiêu, cấp nước: Đã cải tạo và đào mới trên 4.430 km kênh trục và kênh cấp I  tạo  nguồn cách nhau khoảng 5 km/kênh (có chiều rộng từ 8-40 m, cao trình đáy từ -2,0 ¸ -4,0 m); trên 6.000 km kênh cấp II (khoảng 1-2 km có 1 kênh), đưa nước ngọt tưới sâu vào nội đồng và tăng cường khả năng tiêu úng, xổ phèn cho đồng ruộng và 105 trạm bơm điện quy mô lớn và vừa, hàng vạn máy bơm nhỏ để tưới tiêu với năng lực tưới thiết kế 81.620 ha (thực tưới được 23.380 ha).

          - Xây dựng khoảng 80 cống rộng từ 5 m trở lên trong đó có nhiều cống rộng từ 10-30 m, hàng trăm cống có bề rộng 2-4 m và hàng vạn cống nhỏ để ngăn mặn, ngăn lũ, lợi dụng thuỷ triều tưới tiêu. Lớn nhất là cống đập Ba Lai có chiều rộng 84m.

          - Kiểm soát lũ:

          - Xây dựng khoảng 23.000 km bờ bao chống lũ tháng 8 bảo vệ lúa hè-thu.

          - Đã xây dựng 450 km đê biển, 1.290 km đê sông để ngăn mặn cho vùng ven biển.

          - Xây dựng hơn 200 km đê bao cho các khu rừng chàm tập trung để giữ nước mưa chống cháy rừng trong mùa khô.

Nguồn: http://occa.mard.gov.vn