Chủ động mới chống hạn mặn thành công

2020.05.18 - 999 lượt xem

Mùa khô năm 2019-2020 đã khiến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị hạn hán, xâm nhập mặn (hạn mặn) lớn nhất từ trước tới nay. Tuy nhiên, với sự dự báo chính xác, chủ động vào cuộc sớm cùng các giải pháp kịp thời đã giúp vùng này giảm được rất nhiều thiệt hại.

Đợt hạn mặn lịch sử

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp đánh giá hạn mặn năm 2019-2020 ở ĐBSCL lớn nhất từ trước đến nay.

Hạn mặn năm 2019-2020 đến sớm hơn so với cùng kỳ trong nhiều năm hơn 1 tháng và vào rất sâu. Điển hình, Bến Tre đến thời điểm này toàn bộ sông Hàm Luông vẫn bị mặn mà chưa bao giờ khu vực này bị như vậy, mặn vào sâu bình quân 70 km và rút rất chậm. Hàng năm, khoảng giữa tháng 4, khu vực này đã hết hạn mặn nhưng nay, ngành dự báo phải hết tháng 5 mới có khả năng có mưa lớn từ thượng nguồn và mưa nội địa thì mới có thể giảm hạn mặn này.

Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn chủ động do đã dự báo rất đúng và rất sớm. Ngay từ tháng 9/2019, chúng ta đã bắt đầu triển khai các hoạt động để phòng, chống hạn mặn nên đến thời điểm này thiệt hại khẳng định là giảm thiểu ở mức tốt nhất. 

Diện tích lúa bị giảm năng suất từ 30 - 70% khoảng gần 60.000 ha; trong đó có rất ít diện tích bị thiệt hại 100%, cây ăn trái cơ bản không bị ảnh hưởng. Chỉ có 1,7 ha cây ăn trái ở huyện Chợ Lách (Bến Tre) có ảnh hưởng nhưng bà con đã chuyển sang cây trồng khác. 

Về nước sạch có khoảng 96.000 hộ dân bị thiếu nước do ảnh hưởng hạn mặn nhưng không có hộ dân nào không có nước sạch. 

Kết hợp nhiều giải pháp 

Theo Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp, tình trạng biến đổi khí hậu và tính dị thường của thời tiết sẽ khiến việc dự báo hạn mặn càng ngày càng khó, vì vậy, nếu không chủ động trong dự báo, cảnh báo sớm, đúng thì chắc chắn chúng ta sẽ không thể ứng phó. 

Các giải pháp ứng phó với hạn mặn phải được kết hợp cả giải pháp công trình, phi công trình, cả ngắn hạn và dài hạn. Nếu chỉ lựa chọn giải pháp ngắn hạn mà không dài hạn thì sẽ không bền vững. Các giải pháp công trình mà không tính đến các giải pháp phi công trình thì sẽ không có hiệu quả. 

Giải pháp về công trình trong dài hạn là phải làm thế nào kiểm soát được mặn –ngọt, đảm bảo được phục vụ cho tái cơ cấu nông nghiệp và đúng với mục tiêu: nước mặn, nước lợ cũng là nguồn tài nguyên chứ không chỉ nước ngọt. 

Rất nhiều công trình của Bộ NN&PTNT, các địa phương đã được đưa vào vận hành đúng đợt hạn mặn vừa qua nên giảm thiểu rất lớn những vùng ảnh hưởng. Các công trình đã điều tiết mặn-ngọt cho khoảng hơn 300.000 ha lúa. Nếu không các công trình này thì có hàng trăm nghìn ha lúa sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng, bị thiệt hại. 

Trong khi đó giải pháp ngắn hạn đã phát huy hiệu quả tốt của các tỉnh ĐBSCL để trữ nước ngọt là đắp đập tạm, điển hình Kiên Giang vừa qua đã có 197 đập tạm để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt và địa phương này cơ bản không có hộ dân bị ảnh hưởng do thiếu nước ngọt. 

Giải pháp phi công trình là sự chủ động của các cấp chính quyền, người dân cùng tham gia phòng, chống hạn mặn. 

 

Nhiều nhà vườn ở ĐBSCL đào ao lót bạt ngay trong vườn để trữ nước ngọt với dung tích lớn.

Đến 2025 sẽ giải quyết cơ bản tình trạng hạn mặn 

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết hiện Bộ NN&PTNT đang đầu tư 11 hệ thống công trình thuỷ lợi tại ĐBSCL; trong đó 5 công trình đã đưa vào sử dụng sớm trước từ 5 - 14 tháng trong đợt hạn mặn 2019-2020. 

Các công trình đang đầu tư có thể điều tiết sản xuất cho khoảng 1 triệu ha lúa và cây ăn trái, cũng như vùng nuôi trồng thuỷ sản. 

Về trung hạn 2021-2025, ngành nông nghiệp sẽ đầu tư giai đoạn I của Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn-Cái Bé để điều tiết mặn ngọt cho toàn bộ tỉnh Hậu Giang và một phần của tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau; đồng thời nghiên cứu để chuyển nước ngọt cho tỉnh Cà Mau. 

Các hệ thống thủy lợi liên tỉnh được đầu tư sẽ nhằm mục tiêu điều tiết các nguồn nước để đến năm 2025 sẽ khắc phục cơ bản tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn ở ĐBSCL. 

Bảo đảm an ninh nguồn nước 

Các đợt hạn mặn ở ĐBSCL đã đặt ra vấn đề về chiến lược nguồn nước cho khu vực này để làm sao đảm bảo đủ nước, chủ động cân đối được nguồn nước và nguồn nước không được ô nhiễm. 

Theo tính toán, mỗi năm nguồn nước về ĐBSCL khoảng 350 tỷ m3; trong đó 2/3 là từ nước ngoài về, trong vùng này chỉ dùng hết 20 tỷ m3, nhưng chúng ta lại thiếu nước. 

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp phân tích nguyên nhân đầu tiên là với thời tiết cực đoan như năm nay, ngay thượng nguồn sông Mekong không có mưa và các nước thượng nguồn cũng bị hạn. Thứ hai là biến đổi khí hậu và nước biển dâng, triều cường lên quá cao nên mặn vào sâu và không rút ra được. 

ĐBSCL thường thiếu nước từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, chính vì thế bằng các giải pháp điều tiết đảm bảo an ninh nguồn nước, Bộ NN&PTNT sẽ cùng với các tỉnh, nhà nghiên cứu tìm giải pháp đầu tư. Những công trình quan trọng, không nuối tiếc sẽ làm trước. Còn những công trình có thể gây ra những tác động ảnh hưởng thì phải tính toán cụ thể và đầu tư sau./.

Nguồn: baochinhphu.vn