Công tác lấy nước phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân 2024-2025, khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ

2025.02.27 - 102 lượt xem

Vụ Đông Xuân năm 2024-2025, khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ gieo trồng tổng cộng 488.615 ha lúa. Để bảo đảm cung cấp đủ nước phục vụ gieo cấy, thực hiện Quyết định số 740/QĐ-TTg ngày 17/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức xây dựng và thông báo lịch lấy nước, gồm 2 đợt: Đợt 1 gồm 5 ngày (từ 0 giờ 00’ ngày 12/1 đến 24 giờ 00’ ngày 16/1/2025), Đợt 2 gồm 7 ngày (từ 0 giờ 00’ ngày 08/2 đến 24 giờ 00’ ngày 14/2/2025); mực nước tại trạm Thủy văn Hà Nội trong Đợt 1 duy trì trung bình khoảng 1,7 m; Đợt 2 các nhà máy thủy điện vận hành tối đa công suất phát điện để tăng cường nguồn nước về hạ du (mực nước dự kiến đạt khoảng 1,7-1,9 m tại trạm Thủy văn Hà Nội).

Thực tế, tiến độ lấy nước được các địa phương nỗ lực đẩy nhanh hơn dự kiến, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo điều chỉnh linh hoạt Đợt 2 để tiết kiệm nguồn nước từ các hồ chứa thủy điện: Từ ngày thứ 5 của Đợt 2, giảm dòng chảy để duy trì liên tục mực nước tại Sơn Tây ở mức 1,3 m. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo tổng kết công tác lấy nước phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân 2024-2025, khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ như sau:

1. Tình hình nguồn nước

Thời tiết khu vực Bắc Bộ trước và trong thời gian lấy nước Đợt 1 phổ biến không mưa, khô hanh, độ ẩm tương đối nhỏ. Trong thời gian giữa Đợt 1 và Đợt 2, khu vực có mưa với lượng mưa phổ biến từ 5÷25 mm (một số nơi lượng mưa đạt 35÷60 mm). Lượng mưa đã hỗ trợ việc lấy nước hiệu quả hơn.

Để bảo đảm bổ sung nước cho hạ du theo kế hoạch, các hồ chứa thủy điện đã tăng cường phát điện trước các đợt lấy nước khoảng 2,5-3 ngày để dâng mực nước hạ du sông.

Thực tế trong Đợt 1, mực nước trung bình cả đợt tại trạm thủy văn Hà Nội chỉ đạt 1,47 m, cao nhất đạt 1,95 m (ngày 14/1/2025), thấp hơn mức yêu cầu (trung bình 1,7 m), thời gian duy trì mực nước từ 1,7 m trở lên đạt khoảng 32% (38 giờ/120 giờ). Với mực nước trong Đợt 1, các công trình thủy lợi đã được cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, các trạm bơm dã chiến đủ điều kiện để vận hành lấy nước. Tuy nhiên, khả năng đẩy mặn chưa tốt, xâm nhập mặn ở vùng hạ du sông Thái Bình (Thành phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương) ở mức cao đã ảnh hưởng đến khả năng lấy nước của một số công trình, các cống Cầu Xe và An Thổ chỉ bắt đầu vận hành được từ ngày 15/1 (ngày thứ 4 của Đợt 1 lấy nước).

Trong Đợt 2, dòng chảy hệ thống sông Hồng được duy trì ở mức cao nhất theo khả năng do các nhà máy thủy điện vận hành tối đa công suất phát điện (từ ngày 8/2-11/2/2025) và vận hành linh hoạt từ ngày 12-14/2/2025 duy trì liên tục mực nước tại Sơn Tây ở mức 1,3 m. Thực tế, mực nước bình quân tại trạm thủy văn Hà Nội từ ngày 8/2 đến hết ngày 11/2 (4 ngày đầu) đạt 1,80 m, cao nhất đạt 2,30 m vào ngày 10/2/2025; mực nước bình quân tại trạm thủy văn Sơn Tây từ ngày 12/2 đến 14/2/2025 (3 ngày cuối) là 1,50 m. Việc duy trì mực nước trong Đợt 2 đáp ứng tốt yêu cầu, bảo đảm yêu cầu đẩy mặn và đủ điều kiện cho các công trình thủy lợi vận hành lấy nước hiệu quả.

Tổng lượng xả của các hồ chứa thủy điện cả 2 đợt là 3,269 tỷ m3, gồm: Đợt 1 là 1,363 tỷ m3, Đợt 2 là 1,906 tỷ m3, thấp hơn khoảng 0,86 tỷ m3 so với tổng lượng nước xả dự kiến của Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia (NSMO). So với các năm gần đây, tổng lượng xả cao hơn 0,49 tỷ m3 so với năm 2024 (năm có mưa trong các đợt lấy nước); thấp hơn hầu hết các năm có điều kiện thời tiết tương tự, cụ thể: thấp hơn 0,35 tỷ so với năm 2023, 1,97 tỷ m3 so với năm 2022, 1,87 tỷ m3 so với năm 2021. Tổng lượng nước xả cơ bản ở mức khuyến nghị của Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên Lưu vực sông Hồng - Thái Bình do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tại Quyết định số 3776/QĐ- BTNMT ngày 25/11/2024 (2,8-3,2 tỷ m3).

2. Việc vận hành lấy nước của các công trình thủy lợi

Mực nước trên hệ thống sông Hồng trong các đợt lấy nước cơ bản phù hợp với kịch bản tính toán, tạo điều kiện các công trình thủy lợi đã được sửa chữa, nâng cấp hạ thấp cao trình lấy nước, các trạm dã chiến và các cống lấy nước vùng triều có điều kiện vận hành tốt. Tuy nhiên, do tình trạng hạ thấp mực nước trên hệ thống sông tiếp tục diễn biến nhanh, dẫn đến các công trình chưa được đầu tư nâng cấp như cống Liên Mạc (Thành phố Hà Nội), Long Tửu (tỉnh Bắc Ninh) không đủ điều kiện vận hành lấy nước trong các đợt lấy nước.

Ở một số cửa sông, tình trạng xâm nhập mặn diễn biến phức tạp, tăng cao, làm ảnh hưởng đến thời gian lấy nước của một số công trình thủy lợi, điển hình như các cống Cầu Xe, An Thổ của hệ thống Bắc Hưng Hải; một số công trình thuộc Thành phố Hải Phòng.

3. Tình hình lấy nước phục vụ gieo cấy

Kết thúc Đợt 1, diện tích có nước là 181.446 ha/488.615 ha, đạt 37,1% diện tích gieo cấy theo kế hoạch. Trong thời gian giữa Đợt 1 và Đợt 2, các địa phương vẫn tiếp tục tăng cường vận hành các trạm bơm dã chiến, cống vùng triều để tranh thủ lấy nước trong kỳ triều cường dịp Tết Âm lịch và khu vực có mưa với lượng mưa phổ biến từ 5÷25 mm (một số nơi lượng mưa đạt 35÷60 mm) nên diện tích có nước đến trước Đợt 2 là 428.072 ha/ 488.615 ha (đạt 87,6%), tăng khoảng 50% so khi kết thúc Đợt 1.

Tính đến hết Đợt 2 (ngày 14/2), tổng diện tích đã lấy được nước là 473.941 ha/488.615 ha, đạt 97,0% diện tích gieo cấy theo kế hoạch. Các tỉnh chưa hoàn thành 100% diện tích gồm Bắc Ninh (98%), Vĩnh Phúc (93%), Hải Dương (93%), Hà Nội (90%). Các diện tích sẽ tiếp tục được địa phương cấp đủ nước bằng trạm bơm dã chiến, lợi dùng thủy triều và từ nguồn nước nội vùng.

4. Đánh giá thuận lợi, khó khăn

Thuận lợi

Lịch lấy nước của từng đợt được xác định phù hợp với kỳ triều cường, tính toán cụ thể bằng mô hình toán để xác định khoảng thời gian xả nước tiết kiệm nhất và cơ bản phù hợp với nhu cầu lấy nước phục vụ gieo cấy của các địa phương.

Một số công trình lấy nước được nâng cấp từ vụ Đông Xuân 2023-2024 thuộc Thành phố Hà Nội (các trạm bơm dã chiến Phù Sa, Trung Hà) đã giải quyết khó khăn về nguồn nước cho huyện Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai và thị xã Sơn Tây, huyện Ba Vì, làm đẩy nhanh tiến độ lấy nước chung và giảm nhu cầu nước bổ sung từ các hồ chứa thủy điện.

Các cửa lấy nước, hệ thống kênh dẫn nước trong các hệ thống công trình thủy lợi được các địa phương đầu tư nạo vét tốt đã tạo thuận lợi cho việc dẫn nước vào ruộng.

Thời tiết giữa 2 đợt có mưa với lượng mưa khá đã giúp tăng hiệu quả trong công tác lấy nước của các địa phương.

Các địa phương đã chủ động tổ chức vận hành công trình để lấy nước trước đợt xả nước, đặc biệt thời gian giữa Đợi 1 và Đợt 2, đồng thời tích trữ trong các vùng trũng, ao hồ, hệ thống kênh mương để đưa nước lên ruộng trong thời gian giữa các đợt lấy nước.

Công tác chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Thủy lợi, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia và Ủy ban nhân dân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố trong thời gian lấy nước.

Khó khăn

Tình trạng hạ thấp lòng dẫn sông Hồng tiếp tục diễn biến phức tạp làm mực nước sông tiếp tục bị hạ thấp, ảnh hưởng đến hiệu quả lấy nước của các công trình thủy lợi.

Thời tiết trước vụ Đông Xuân khô hanh kéo dài làm đồng ruộng khô ải, gây tốn nước hơn so với một số năm trước do lượng nước thấm hút ban đầu rất lớn.

Xâm nhập mặn ở khu vực hạ du sông Hồng có xu hướng tăng nhanh trong một số năm gần đây gây ảnh hưởng đến khả năng lấy nước của công trình thủy lợi, làm giảm tiến độ lấy nước ở các địa phương như Hải Phòng, Hải Dương, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải,...

Một số địa phương có tập quán lấy nước muộn, cấp nước bằng các trạm bơm dã chiến nên cần thời gian lấy nước dài.

5. Công tác phối hợp chỉ đạo, điều hành của các cơ quan liên quan

Việc cấp nước phục vụ làm đất gieo cấy lúa vụ Đông Xuân 2024-2025, khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, các cơ quan khoa học và địa phương xây dựng, thực hiện kế hoạch lấy nước và điều hành linh hoạt các đợt lấy nước đạt hiệu quả cao, cụ thể:

Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì các Đoàn công tác làm việc với địa phương và kiểm tra, đôn đốc tiến độ lấy nước, chỉ đạo điều chỉnh thời gian lấy nước và mực nước hạ du hệ thống sông phù hợp với điều kiện thực tế.

Các cơ quan chuyên môn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia và các địa phương đã tổ chức xây dựng lịch lấy nước trên cơ sở tính toán cụ thể bằng mô hình toán bảo đảm các tiêu chí chủ yếu (như: khung thời vụ, lịch thủy triều, nhu cầu lấy nước của địa phương, không trùng kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán), bảo đảm tính thực tiễn cao, góp phần tiết kiệm nước từ các hồ chứa thủy điện.

Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia đã tổ chức vận hành các nhà máy thủy điện bổ sung nước cho hạ du theo đúng yêu cầu, tạo điều kiện thuận lợi cho các công trình thủy lợi vận hành lấy nước; thông tin điều hành xả nước của Công ty được gửi hằng ngày đến Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan liên quan để phối hợp thực hiện. Tập đoàn Điện lực Việt Nam bảo đảm cung cấp đủ điện cho các trạm bơm hoạt động.

Trong thời gian lấy nước, thông tin điều hành xả các hồ chứa thủy điện và dự báo mực nước hệ thống sông Hồng – Thái Bình tại hạ du được Công ty Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia và Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia phối hợp cập nhật liên tục, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành xả nước và lấy nước.

Các cơ quan báo chí, truyền thông (VTV, VOV, TTXVN, Báo Nông nghiệp Việt Nam,.v.v.) đã phối hợp tổ chức tuyên truyền tốt trên các phương tiện thông tin đại chúng về tình hình nguồn nước, lịch lấy nước và các khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, góp phần quan trọng thúc đẩy tiến độ lấy nước và sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.

Nhìn chung, công tác phối hợp, chỉ đạo, điều hành các đợt lấy nước được thực hiện sâu sát, quyết liệt đã góp phần đẩy nhanh tiến độ lấy nước.

6. Bài học kinh nghiệm

Để đạt được những kết quả như trên, bài học kinh nghiệm rút ra trong việc chỉ đạo điều hành như sau:

Sự quan tâm chỉ đạo, điều hành sát sao của Lãnh đạo Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cấp, ngành và địa phương trong khu vực đã đảm bảo đủ nước cho diện tích gieo cấy theo kế hoạch và tiết kiệm  nguồn nước xả từ các hồ chứa thủy điện.

Việc chủ động xây dựng kế hoạch lấy nước, nạo vét hệ thống kênh mương, cửa lấy nước, và vận hành công trình lấy nước, tận dụng nguồn nước trong thời gian trước và giữa các đợt lấy nước đã tích trữ trong hệ thống kênh mương, ao, đầm, vùng trũng để đưa nước lên ruộng đã đẩy nhanh tiến độ lấy nước.

Việc tiếp tục đầu tư các trạm bơm có thể vận hành lấy nước chủ động, hạn chế phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ chứa thủy điện vẫn là giải pháp hiệu quả nhất trong giai đoạn hiện nay để thích ứng với tình trạng mực nước sông bị hạ thấp. Bên cạnh đó, cần thiết phải tiếp tục rà soát, bổ sung, duy trì hoạt động các trạm bơm dã chiến có khả năng vận hành không phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ chứa thủy điện, sẵn sàng thích ứng với tình trạng mực nước sông bị hạ thấp bất thường.

Sự phối hợp tốt của các cơ quan truyền thông trong việc tuyên truyền sớm và liên tục về lịch điều tiết các hồ thủy điện, tình hình nguồn nước, công tác chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong thời gian lấy nước đã giúp các địa phương nắm bắt được thông tin và chủ động đưa ra phương án lấy nước hiệu quả nhằm đẩy nhanh tiến độ lấy nước và tiết kiệm nguồn nước xả.

Cần phải tăng cường công tác giám sát và phải có giải pháp khẩn cấp thích ứng trước mắt và lâu dài đối với tình trạng xâm nhập mặn ở vùng hạ du

Kiểm tra lấy nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân 2024-2025

Tin cùng loại