Hội đồng nghiệm thu đề tài NCKH ký kết giữa Tập đoàn điện lực Việt Nam và Viện Quy hoạch Thủy lợi

2020.02.07 - 1470 lượt xem

Ngày 7/2/2020, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã tổ chức họp Hội đồng nghiệm thu kết quả thực hiện đề tài cấp tập đoàn “ Đánh giá thực trạng lấy nước và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả lấy nước trong các đợt điều tiết bổ sung từ các hồ chứa thủy điện phục vụ gieo cấy Đông Xuân khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ”

Hội đồng do ông Ngô Xuân Hải – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn EVN làm chủ tịch và có sự tham gia của các bộ phận liên quan thuộc EVN, đại diện Tổng cục Thủy lợi. Ngoài ra có các đại diện của các đơn vị vận hành hồ chứa Sơn La, Hòa Bình.

Về phía Viện Quy hoạch Thủy lợi có ông Đỗ Văn Thành – Viện trưởng, ông Lương Ngọc Chung - Phó Viện trưởng, ông Lê Viết Sơn – chủ nhiệm đề tài và đại diện các đơn vị liên quan

Hội đồng đánh giá cao kết quả nghiên cứu của đề tài, trong đó hiệu quả lớn nhất đã tư vấn cho EVN và Bộ Nông nghiệp và PTNT tiết kiệm được lượng nước lớn từ 1,4 tỷ đến 1,6 tỷ m3 nước điều tiết từ các hồ chứa thủy văn. Đồng thời đề tài cũng đã đề xuất một số giải pháp ngắn, trung và dài hạn nhằm cải thiện hơn nữa hiệu quả lấy nước.

Kết luận của Hội đồng: Đề tài đã hoàn thành đúng thời hạn và đạt yêu cầu về mặt khoa học, nhất trí nghiệm thu kết quả nghiên cứu và đề nghị EVN, Viện Quy hoạch Thủy lợi tiếp tục ứng dụng kết quả đề tài để tham mưu cho Bộ Nông nghiệp và PTNT phát huy hiệu quả xả nước ở các năm tiếp theo

Một số hình ảnh của Hội đồng nghiệm thu:

Một số thông tin chính về đề tài:

Tên đề tài: Nghiên cứu đánh giá thực trạng lấy nước và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả lấy nước trong các đợt điều tiết nước bổ sung từ các hồ chứa thủy điện phục vụ gieo cấy lúa Đông Xuân, khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ

Đơn vị chủ trì: Viện Quy hoạch Thủy lợi – 162A Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Viết Sơn – Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi Bắc Bộ, Viện QHTL

Thời gian thực hiện: Từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 9 năm 2019

Các nội dung chính đề tài thực hiện:

Nội dung 1: Tổng quan về các vấn đề liên quan đến nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam

Nội dung 2: Đánh giá tình hình điều hành xả nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân trong 10 năm qua, những thành tựu đã đạt được và thách thức đặt ra trong giai đoạn tới

Nội dung 3: Nghiên cứu đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp của 12 tỉnh thuộc vùng nghiên cứu

Nội dung 4: Vai trò, nhiệm vụ, tình hình sản xuất của các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Thác Bà, Tuyên Quang, Lai Châu, Bản Chát, Huổi Quảng

Nội dung 5: Tính toán nhu cầu dùng nước của các tỉnh ở hạ du các hồ chứa thủy điện

Nội dung 6: Nghiên cứu chế độ dòng chảy ở hạ lưu dưới tác động của các hồ chứa

Nội dung 7: Nghiên cứu nguyên nhân và dự báo tình hình hạ thấp mực nước trên các sông ở vùng Trung du và đồng bằng sông Hồng -  sông Thái Bình

Nội dung 8: Xây dựng mô hình thủy lực toàn mạng vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, tính toán đánh giá khả năng lấy nước của các công trình theo các lượng xả nước khác nhau từ hồ chứa

Nội dung 9: Nghiên cứu lan truyền mặn ở vùng hạ du tương ứng với kịch bản xả nước

Nội dung 10: Tính toán lượng nước có thể tiết kiệm được từ các giải pháp được đề xuất theo các kịch bản

Nội dung 11: Phân tích hiệu quả kinh tế tương ứng với các kịch bản

Nội dung 12: Nghiên cứu xác định phương án vận hành hợp lý các hồ chứa thủy điện trên hệ thống sông Hồng – Thái Bình

Nội dung 13: Nghiên cứu các giải pháp công trình và phi công trình nâng cao hiệu quả lấy nước và xây dựng kế hoạch lấy nước

Nội dung 14: Xây dựng kế hoạch vận hành các hồ chứa phục vụ đa mục tiêu đảm bảo nâng cao hiệu quả phát điện, đáp ứng nhu cầu nước ở hạ du và nâng cao giá trị kinh tế của nước trong thời kỳ xả nước gia tăng

Nội dung 15: Xây dựng khung kế hoạch lấy nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân

Từ năm 2007 đến nay, để đảm bảo đủ nước phục vụ gieo cấy lúa Đông Xuân vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, các hồ chứa thủy điện đã phải xả nước gia tăng, mỗi năm thường phải xả 3 đợt, số ngày xả nước khoảng 20 ngày. Tổng lượng nước cần xả trước năm 2010 khoảng 3 tỷ m3, đến nay phải xả xấp xỉ 6 tỷ m3 nước (tăng gấp đôi). Với tình trạng này tiếp diễn đến một thời điểm các hồ chứa không còn đủ nước để xả

Cần điều chỉnh quy trình xả nước gia tăng:

  • Đợt 1: Chỉ cần xả đảm bảo lưu lượng tại Sơn Tây duy trì khoảng 2.500m3/s, mực nước từ Hà Nội từ 1,8m, để đảm bảo đẩy mặn. Thời gian xả nước khoảng 4 ngày
  • Đợt 2: Duy trì lượng xả tối đa từ các hồ chứa để đảm bảo đủ nước cho các cống, trạm bơm hoạt động. Duy trì thời gian lấy nước đủ dài từ 6-8 ngày
  • Đợt 3: Chỉ cần duy trì mực nước tại Hà Nội ở mức 1,4m để các trạm bơm dã chiến, trạm bơm chìm trên địa bàn Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh có thể vận hành. Thời gian lấy nước không quá 8 ngày

Cần điều chỉnh quy trình vận hành hồ chứa: điều chỉnh lại Điểm a, Khoản 1, Điều 21 của Quy trình 1622 như sau:

  • Đợt 1: Chỉ xả để đảm bảo đẩy mặn, phục vụ các tỉnh ven biển, cần duy trì mực nước Hà Nội 1,8m, mực nước thấp nhất 1,2m
  • Đợt 2: Duy trì mực nước bình quân tại Hà Nội 2,0m, mực nước thấp nhất 1,6m
  • Đợt 3: Duy trì mực nước Hà Nội 1,4m để các tỉnh thượng du vận hành các trạm bơm hút sâu và trạm bơm dã chiến, mực nước thấp nhất 1,2m

Kết quả cải tiến quy trình xả nước gia tăng năm 2019 đã cho thấy lượng nước cần xả đã giảm từ 5,8 tỷ m3 xuống còn 4,4 tỷ m3, tiết kiệm được 1,4 tỷ m3 nước. Việc tiết kiệm được 1,4 tỷ m3 nước để phát điện vào mùa hè, giai đoạn có nhu cầu dùng điện cao nhất không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo an toàn điện năng cho toàn hệ thống.

Hiệu quả do đề tài mang lại:

  1. Hiệu quả về khoa học và công nghệ: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là bộ tài liệu bổ sung vào quy trình vận hành các hồ chứa đã có, là cơ sở khoa học để đề xuất quy trình vận hành hồ chứa mùa cạn hệ thống liên hồ sông Hồng – Thái Bình
  2. Hiệu quả về kinh tế xã hội:

+ Tiết kiệm được lượng nước xả từ các hồ chứa thủy điện trong thời kỳ đổ ải vụ Đông Xuân

+ Cải thiện hiệu quả lấy nước của các công trình ở hạ du hệ thống sông

+ Tối ưu hóa giá trị kinh tế mà nước mang lại từ các hồ chứa

Nguồn: Viện QHTL

Tin cùng loại